Ảnh mang tính minh hoạ - Nguồn Internet |
MỤC LỤC CHUẨN
MỰC KẾ TOÁN
TT
|
Số chuẩn mực
|
Tên chuẩn mực
|
Tải tập tin
|
1
|
01
|
||
2
|
02
|
||
3
|
03
|
||
4
|
04
|
||
5
|
05
|
||
6
|
06
|
||
7
|
07
|
||
8
|
08
|
||
9
|
10
|
||
10
|
11
|
||
11
|
14
|
||
12
|
15
|
||
13
|
16
|
||
14
|
17
|
||
15
|
18
|
||
16
|
19
|
||
17
|
21
|
Trình bày báo cáo tài chính
|
|
18
|
22
|
||
19
|
23
|
||
20
|
24
|
||
21
|
25
|
||
22
|
26
|
||
23
|
27
|
||
24
|
28
|
||
25
|
29
|
||
26
|
30
|
HỆ
THỐNG
CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VIỆT NAM
CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VIỆT NAM
--------------------------------------------------------------------------------------
CHUẨN MỰC SỐ 19
HỢP
ĐỒNG BẢO HIỂM
(Ban hành và công bố theo
Quyết định số 100/QĐ-BTCngày 28/12/2005 của
Bộ trưởng Bộ Tài chính)
QUY ĐỊNH CHUNG
01.
Mục
đích của chuẩn mực này là quy định và
hướng dẫn các nguyên tắc, phương pháp
đánh giá và ghi nhận các yếu tố của hợp
đồng bảo hiểm trên báo cáo tài chính của doanh
nghiệp bảo hiểm, gồm:
a) Phương pháp kế toán hợp đồng
bảo hiểm trong các doanh nghiệp bảo hiểm;
b) Trình bày
và giải thích số liệu trong các báo cáo tài chính của
doanh nghiệp bảo hiểm phát sinh từ hợp
đồng bảo hiểm.
02.
Chuẩn
mực này áp dụng đối với:
a) Kế
toán hợp đồng bảo hiểm (bao gồm cả
hợp đồng nhận tái và nhượng tái bảo
hiểm);
b) Các công
cụ tài chính với đặc điểm là có phần
không đảm bảo gắn liền với
Hợp đồng bảo hiểm do doanh nghiệp
bảo hiểm phát hành
03.
Chuẩn
mực này không áp dụng cho kế toán các hoạt
động khác của doanh nghiệp bảo hiểm,
như: Kế toán tài sản tài chính do các doanh nghiệp
bảo hiểm sở hữu và kế toán các công cụ
nợ tài chính do các doanh nghiệp bảo hiểm phát hành
nhưng không gắn liền với hợp đồng
bảo hiểm.
04.
Chuẩn
mực này không áp dụng đối với:
a) Giấy bảo hành sản phẩm, hàng hoá;
b) Tài sản và các khoản nợ phải trả cho
người lao động;
c) Các quyền và nghĩa vụ mang tính hợp
đồng liên quan đến việc sử dụng
hoặc quyền được sử dụng trong
tương lai một khoản phi tài chính (Ví dụ: Phí
đăng ký, phí bản quyền, tiền chi trả
hợp đồng phát sinh đột xuất và các
khoản tương tự khác), cũng như đảm
bảo giá trị còn lại của bên thuê trong một
hợp đồng thuê tài chính (quy định tại
Chuẩn mực kế toán số 06 – "Thuê tài
sản"; Chuẩn mực kế toán số 14 – "Doanh
thu và thu nhập khác" và Chuẩn mực kế toán
số 04 – "TSCĐ vô hình");
d) Các cam kết bảo lãnh tài chính do doanh nghiệp
cam kết thực hiện hoặc giữ lại
để chuyển giao cho một bên khác về tài sản
tài chính hoặc công cụ nợ tài chính thuộc phạm vi
điều chỉnh của chuẩn mực kế toán
"Công cụ tài chính" (Các cam kết tài chính có thể
được thể hiện dưới các hình thức
như: Các bảo đảm tài chính, thư tín
dụng);
e) Các khoản phải thu hay phải trả tiềm
tàng trong hoạt động hợp nhất kinh doanh (quy
định tại Chuẩn mực kế toán số 11 -
Hợp nhất kinh doanh);
f) Các hợp đồng bảo hiểm gốc mà
doanh nghiệp bảo hiểm là bên mua bảo hiểm.
05.Các thuật ngữ trong chuẩn mực này
được hiểu như sau:
Doanh
nghiệp bảo hiểm: Là bên tham gia vào
một hợp đồng bảo hiểm, có nghĩa
vụ phải trả tiền bồi thường cho
chủ hợp đồng theo quy định của
hợp đồng trong trường hợp có sự
kiện được bảo hiểm xảy ra.
Hợp
đồng bảo hiểm: Là một
hợp đồng mà doanh nghiệp bảo hiểm thoả
thuận một khoản tiền (gọi là phí bảo
hiểm) và chấp nhận rủi ro bảo hiểm
trọng yếu từ khách hàng (chủ hợp đồng)
bằng các thoả thuận bồi thường cho chủ
hợp đồng nếu có sự kiện xảy ra trong
tương lai gây tổn thất tới chủ hợp
đồng.
Hợp
đồng bảo hiểm gốc: Là hợp
đồng bảo hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm
ký trực tiếp với tổ chức, cá nhân mua bảo
hiểm mà không phải là hợp đồng tái bảo
hiểm.
Chủ
hợp đồng: Là bên có quyền được
nhận khoản bồi thường theo quy định
tại hợp đồng bảo hiểm trong
trường hợp một sự kiện được
bảo hiểm xảy ra.
Hợp
đồng tái bảo hiểm: Là hợp
đồng bảo hiểm do doanh nghiệp nhận tái
bảo hiểm phát hành để bồi thường cho
doanh nghiệp nhượng tái đối với những
tổn thất của một hay nhiều hợp
đồng bảo hiểm do doanh nghiệp nhượng tái
phát hành.
Doanh
nghiệp nhượng tái bảo hiểm: Là doanh
nghiệp bảo hiểm gốc chuyển giao rủi ro
bằng hình thức tái bảo hiểm.
Rủi ro
bảo hiểm: Là những rủi ro ngoài rủi
ro tài chính được chuyển từ chủ hợp
đồng bảo hiểm sang doanh nghiệp bảo
hiểm.
Khoản
nợ bảo hiểm: Là các nghĩa vụ thuần
theo hợp đồng bảo hiểm của doanh
nghiệp bảo hiểm.
Tài sản
bảo hiểm: Là giá trị quyền thuần theo
hợp đồng bảo hiểm của doanh nghiệp
bảo hiểm.
Khoản
đặt cọc: Là một phần của hợp
đồng nhưng không được hạch toán là công
cụ phái sinh theo quy định của chuẩn mực
kế toán "Công cụ tài chính" và sẽ thuộc
phạm vi của chuẩn mực kế toán "Công cụ
tài chính" nếu nó là một công cụ riêng biệt.
Các nhân
tố được đảm bảo: Là
nghĩa vụ phải trả các lợi ích được
đảm bảo, đã ghi trong nội dung hợp
đồng.
Các lợi
ích được đảm bảo: Là các
khoản thanh toán hoặc các lợi ích khác mà chủ hợp
đồng hay nhà đầu tư được
hưởng một cách vô điều kiện mà theo hợp
đồng không nằm trong quyền quyết định
của doanh nghiệp bảo hiểm.
Tài sản
tái bảo hiểm: Là quyền thuần theo hợp
đồng của nhà nhượng tái trong hợp
đồng tái bảo hiểm.
Phần
không đảm bảo: Là một quyền dựa
trên hợp đồng để nhận một số các
lợi ích như một phần bổ sung cho các lợi ích
được đảm bảo:
a) Các lợi ích này phải là một phần đáng
kể của toàn bộ lợi ích thoả thuận trong
hợp đồng;
b) Giá trị và thời điểm nhận
được các lợi ích này theo hợp đồng
tuỳ thuộc vào ý muốn của bên phát hành; và
c) Các
lợi ích theo hợp đồng này dựa trên:
(i) Mức
độ hiệu quả của một nhóm các hợp
đồng cụ thể hoặc của một loại
hợp đồng cụ thể;
(ii) Lãi từ
những khoản đầu tư đã hoặc chưa
thực hiện từ một nhóm tài sản cụ thể
do bên phát hành sở hữu; hoặc
(iii) Lợi nhuận
hay số thua lỗ của một công ty, một quỹ hay
bất kỳ một đơn vị nào khác phát hành
hợp đồng.
Công khai: Là việc
hạch toán và có thể cung cấp thông tin về các bộ
phận của một hợp đồng nếu chúng là
những hợp đồng riêng rẽ.
Giá trị
hợp lý: Là giá trị tài sản có thể
được trao đổi, hoặc một khoản
nợ được thanh toán giữa các bên có đầy
đủ hiểu biết trong sự trao đổi ngang
giá.
Rủi ro
tài chính: Là rủi ro xảy ra khi có sự thay
đổi trong tương lai của một hay các yếu
tố như: Lãi suất, giá của công cụ tài chính, giá
hàng hoá, tỷ giá hối đoái, chỉ số giá cả,
tỷ suất tín dụng, chỉ số tín dụng
hoặc các biến số khác, kể cả các biến
số phi tài chính mà các biến số này không
được quy định cụ thể trong hợp
đồng.
Công cụ
tài chính: Là một hợp đồng trong đó
một doanh nghiệp trong hợp đồng tạo ra
một tài sản tài chính, đồng thời một doanh
nghiệp khác trong hợp đồng lại tạo ra
một khoản nợ tài chính hay một công cụ vốn
tự có.
Công cụ
phái sinh: Là công cụ tài chính mà giá trị của nó
thay đổi do có sự thay đổi của một
đối tượng cơ sở, đối
tượng này không đòi hỏi hay chỉ đòi hỏi
một khoản đầu tư ròng ban đầu rất
nhỏ so với các hợp đồng khác, và sẽ
được thanh toán vào một thời điểm trong
tương lai.
Các sự
kiện được bảo hiểm: Là
những sự kiện có thể xảy ra rủi ro trong
tương lai được ghi trong hợp đồng
bảo hiểm.
Kiểm tra
tính đầy đủ của khoản nợ: Là việc
đánh giá nhằm xác định xem giá trị ghi sổ
của một khoản nợ bảo hiểm có cần
phải được tăng lên hay không (hoặc giá
trị ghi sổ của những chi phí khai thác chờ phân
bổ hoặc những tài sản vô hình có liên quan có cần
phải được giảm đi hay không) dựa trên
việc xem xét các dòng tiền trong tương lai.
NỘI DUNG CHUẨN MỰC
Công cụ phái sinh
06. Chuẩn mực kế toán
"Công cụ tài chính" quy định các doanh nghiệp
phải tách và xác định công cụ phái sinh từ
hợp đồng bảo hiểm gốc theo giá trị
hợp lý, và ghi nhận những khoản chênh lệch do
thay đổi giá trị hợp lý vào Báo cáo kết quả
hoạt động kinh doanh năm tài chính. Chuẩn mực
kế toán "Công cụ tài chính" áp dụng cho các công
cụ phái sinh gắn liền với một hợp
đồng bảo hiểm cụ thể, trừ khi chính
công cụ phái sinh này là một hợp đồng bảo
hiểm.
07. Chuẩn mực kế toán "Công cụ tài chính"
quy định trường hợp ngoại lệ là: Doanh
nghiệp bảo hiểm không cần phải tách công cụ
phái sinh từ hợp đồng bảo hiểm gốc và
xác định giá trị hợp lý của giá hoàn lại khi
bên mua bảo hiểm chấm dứt hợp đồng
bảo hiểm (đây là khoản cố định
hoặc là khoản cố định gộp với
một khoản lãi nào đó), thậm chí giá trị hiện
tại của khoản nợ bảo hiểm khác với
giá trị ghi sổ của nó. Tuy nhiên, chuẩn mực
kế toán "Công cụ tài chính" áp dụng cho quyền
chọn và chấm dứt hợp đồng bảo
hiểm nếu nhận giá trị hoàn lại gắn
liền trong hợp đồng bảo hiểm và giá
trị hoàn lại này dao động theo sự thay đổi
của biến số tài chính (Ví dụ: Chỉ số
chứng khoán, giá cả hàng hoá hay chỉ số giá cả),
hoặc do sự thay đổi của biến số phi
tài chính mà không phải do bất kỳ một bên nào trong
hợp đồng. Quy định này cũng áp dụng
đối với khả năng thực hiện quyền
chọn hoặc quyền chấm dứt hợp
đồng do sự thay đổi của các biến
số trên (Ví dụ: Quyền chọn bán có thể thực
hiện được nếu có một chỉ số
chứng khoán đạt được một mức
độ cụ thể nào đó).
08. Đoạn 07 có thể áp dụng đối với
quyền chấm dứt một công cụ tài chính có
đặc điểm không đảm bảo.
Công khai khoản tiền đặt cọc
09. Một số hợp đồng bảo hiểm
bao gồm cả phần bảo hiểm và phần
đặt cọc, doanh nghiệp bảo hiểm
được quyền lựa chọn công khai hay không công
khai khoản tiền đặt cọc theo quy định
sau:
a) Khoản tiền đặt cọc
phải công khai nếu thoả mãn cả hai điều
kiện sau:
(i) Doanh nghiệp bảo hiểm có thể xác
định riêng rẽ được khoản tiền
đặt cọc bao gồm bất kỳ quyền
chấm dứt nào đi kèm và không xét đến phần
bảo hiểm;
(ii) Chính sách kế toán của doanh nghiệp bảo
hiểm không yêu cầu phải ghi nhận tất cả
quyền và nghĩa vụ phát sinh từ khoản tiền
đặt cọc này như ví dụ tại đoạn 10.
b) Không bắt buộc phải công khai trong
trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm xác
định được khoản tiền đặt
cọc một cách riêng rẽ như quy định tại
điểm (a/i) nhưng chính sách kế toán đòi hỏi
doanh nghiệp bảo hiểm phải ghi nhận tất
cả các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ khoản
tiền đặt cọc, không tính đến cơ sở
được sử dụng để tính toán những
quyền và nghĩa vụ đó.
c) Không phải công khai trong trường hợp
doanh nghiệp bảo hiểm không thể xác định
được khoản tiền đặt cọc một
cách riêng rẽ như quy định tại điểm
(a/i).
10. Ví dụ trường hợp các chính sách kế toán
của doanh nghiệp bảo hiểm không yêu cầu
phải ghi nhận tất cả nghĩa vụ phát sinh
từ khoản tiền đặt cọc:
Doanh nghiệp
nhượng tái bảo hiểm nhận khoản tiền
đặt cọc để thanh toán tổn thất trong
tương lai từ các doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm
nhưng theo hợp đồng thì doanh nghiệp
nhượng tái bảo hiểm phải có trách nhiệm hoàn
trả khoản tiền đặt cọc này trong những
năm tới. Nếu chính sách kế toán của doanh
nghiệp nhượng tái cho phép họ ghi nhận khoản
đặt cọc này là thu nhập, mà không ghi nhận là
khoản phải trả thì bắt buộc phải công khai.
11. Để đáp
ứng yêu cầu công khai báo cáo tài chính, doanh nghiệp
bảo hiểm phải áp dụng:
a) Chuẩn mực này
đối với phần bảo hiểm;
b) Chuẩn mực "Công cụ tài chính" đối
với khoản tiền đặt cọc.
Đánh giá và ghi nhận
Áp dụng chính sách kế toán
12. Doanh nghiệp bảo hiểm phải áp dụng
các chính sách kế toán:
a) Không được trích lập và ghi nhận
khoản dự phòng để bồi thường trong
tương lai, nếu các yêu cầu đòi bồi
thường phát sinh từ các hợp đồng này không
tồn tại tại thời điểm khoá sổ
lập báo cáo tài chính (Ví dụ: Dự phòng dao động
lớn hay dự phòng đảm bảo cân đối);
b) Phải kiểm tra tính đầy đủ
của các khoản nợ phải trả quy định
trong đoạn 13-17.
c) Xoá bỏ một khoản nợ bảo hiểm
(hoặc một phần của khoản nợ bảo
hiểm) ra khỏi Bảng cân đối kế toán khi nó
đã được thanh toán, được huỷ
bỏ hay hết hạn.
d) Doanh nghiệp bảo hiểm không được
bù trừ:
(i) Các tài sản tái bảo hiểm với các
khoản nợ bảo hiểm liên quan; hoặc
(ii) Thu nhập hay chi phí của những hợp
đồng tái bảo hiểm với các chi phí hay thu
nhập của các hợp đồng bảo
hiểm liên quan;
đ) Cần phải xem xét, đánh giá mức
độ giảm giá của các tài sản tái bảo
hiểm như quy định tại đoạn 18.
Kiểm tra tính đầy đủ của các khoản
nợ bảo hiểm
13. Tại thời điểm khoá
sổ lập báo cáo tài chính, doanh nghiệp bảo hiểm
phải đánh giá việc ghi nhận các khoản nợ
bảo hiểm đã đầy đủ hay chưa,
bằng cách ước tính giá trị hiện tại
của các luồng tiền phát sinh trong tương lai theo
quy định trong hợp đồng bảo hiểm.
Nếu đánh giá đó cho thấy giá trị ghi sổ
của những khoản nợ bảo hiểm (sau khi
trừ đi những chi phí khai thác chờ phân bổ và các
tài sản vô hình có liên quan như quy định trong
đoạn 27 và 28) là không đủ so với các luồng
tiền ước tính trong tương lai, thì toàn bộ
số thiếu hụt này sẽ được phản ánh
vào Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
14. Doanh nghiệp bảo hiểm phải
kiểm tra tính đầy đủ của các khoản
nợ bảo hiểm xem có thoả mãn những yêu cầu
tối thiểu dưới đây hay không:
a) Kiểm
tra, xem xét các ước tính hiện tại của tất
cả các luồng tiền theo hợp đồng và các
luồng tiền có liên quan (các chi phí giải quyết
khiếu nại) cũng như các luồng tiền phát sinh
từ những quyền lựa chọn và đảm
bảo đi kèm.
b) Nếu qua kiểm tra cho thấy việc tính toán các
khoản nợ là không đầy đủ thì toàn bộ
số thiếu hụt này sẽ được hạch
toán vào Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
Khi lập báo cáo
kết quả hoạt động kinh doanh nộp cho cơ
quan quản lý bảo hiểm (Bộ Tài chính), các doanh
nghiệp bảo hiểm phải tuân theo quy định
của các cơ chế tài chính đối với chi phí khai
thác.
15.
Trường hợp chính sách kế
toán của doanh nghiệp bảo hiểm không quy định
phải kiểm tra tính đầy đủ của khoản
nợ xem có thoả mãn những yêu cầu tối thiểu
trong đoạn 14 hay không, doanh nghiệp bảo hiểm phải:
a) Xác định khoản chênh lệch giữa giá
trị ghi sổ của các khoản nợ bảo hiểm
tương ứng với giá trị ghi sổ của:
(i) Những chi phí khai thác có liên quan chờ phân
bổ; và
(ii) Bất kì một tài sản vô hình nào có liên quan
như các tài sản có được từ hợp
nhất doanh nghiệp hay chuyển nhượng hợp
đồng bảo hiểm như quy định tại
đoạn 27 và 28. Tuy nhiên, các tài sản tái bảo hiểm
liên quan không được xem xét vì chúng đã
được hạch toán một cách riêng rẽ như quy
định tại đoạn 18.
b) Xác định xem số liệu được
nêu trong đoạn (a) có thấp hơn giá trị ghi sổ
của nó hay không, nếu các khoản nợ bảo hiểm
tương ứng thuộc phạm vi của Chuẩn
mực kế toán "Các khoản dự phòng, tài sản và
nợ tiềm tàng". Trường hợp phát sinh chênh
lệch nhỏ hơn, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ
phải ghi nhận toàn bộ khoản chênh lệch đó
vào Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và ghi
giảm giá trị ghi sổ của những chi phí khai thác
hợp đồng chờ phân bổ hoặc các tài sản
vô hình có liên quan hoặc ghi tăng giá trị ghi sổ
của những khoản nợ bảo hiểm tương
ứng.
16.
Nếu việc kiểm tra tính
đầy đủ của khoản nợ bảo hiểm
thoả mãn được những yêu cầu tối thiểu
quy định tại đoạn 14 thì việc kiểm tra
sẽ được áp dụng ở mức độ tổng
thể. Ngược lại nếu việc kiểm tra tính
đầy đủ của khoản nợ bảo hiểm
không thoả mãn những yêu cầu tối thiểu, thì cách
tính trong đoạn 15 được sử dụng ở
mức độ của từng nhóm hợp đồng có
mức độ rủi ro tương tự và coi như một
nhóm danh mục đơn lẻ.
17.
Số liệu tính được
theo quy định tại đoạn 15(b) (Ví dụ: Kết
quả của việc áp dụng Chuẩn mực "Các
khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng") sẽ
phản ảnh tỷ suất lợi nhuận đầu
tư trong tương lai như quy định tại
đoạn 24 - 26 khi số liệu tính được theo
quy định tại đoạn 15(a) cũng phản ánh những
tỷ suất lợi nhuận đó.
Sự giảm giá trị của các tài sản
tái bảo hiểm
18.
Nếu như các tài sản tái bảo
hiểm của doanh nghiệp nhượng tái bị giảm
giá trị thì có thể giảm giá trị ghi sổ một
cách thích hợp và ghi nhận sự giảm giá trị trong
báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Một
tài sản tái bảo hiểm bị giảm giá trị khi:
a) Có bằng chứng chắc chắn
là kết quả của một sự kiện phát sinh sau
khi ghi nhận tài sản tái bảo hiểm, theo đó doanh nghiệp
nhượng tái có thể không thu hồi được
toàn bộ số phải thu theo điều khoản của
hợp đồng tái bảo hiểm;
b) Có thể đo lường
được một cách đáng tin cậy những ảnh
hưởng của sự kiện đó đối với
số phải thu của doanh nghiệp nhượng tái từ
doanh nghiệp nhận tái.
Những thay đổi trong chính sách kế
toán
19.
Doanh nghiệp bảo hiểm có thể
thay đổi các chính sách kế toán đối với hợp
đồng bảo hiểm khi và chỉ khi những thay
đổi này làm cho các báo cáo tài chính trở nên thích hợp
hơn đối với yêu cầu ra quyết định
kinh tế của người sử dụng báo cáo mà không
làm giảm độ tin cậy hoặc tăng độ
tin cậy mà không giảm tính thích hợp đối với
những yêu cầu này. Doanh nghiệp bảo hiểm có thể
đánh giá mức độ tin cậy và thích hợp dựa
trên những tiêu chuẩn trong Chuẩn mực kế toán số
29 – "Thay đổi chính sách kế toán, ước tính kế
toán và các sai sót".
20.
Để lý giải cho việc
thay đổi chính sách kế toán đối với các hợp
đồng bảo hiểm, Doanh nghiệp bảo hiểm
phải chứng minh được những thay đổi
này sẽ làm cho các báo cáo tài chính phù hợp hơn với các
quy định trong Chuẩn mực số 29, nhưng những
thay đổi này không nhất thiết phải hoàn toàn tuân
theo những quy định đó, cụ thể các nội
dung sau:
a) Lãi suất thị trường hiện hành (đoạn
21);
b) Tiếp tục thực hiện các chính
sách kế toán hiện hành (đoạn 22);
c) Thận trọng (đoạn 23);
d) Tỷ suất đầu tư trong
tương lai (đoạn 24 - 26).
Lãi suất thị trường hiện
hành
21.
Doanh nghiệp bảo hiểm
được phép, nhưng không bắt buộc phải
thay đổi các chính sách kế toán để tính lại
các khoản nợ bảo hiểm theo lãi suất thị
trường hiện hành và ghi nhận những thay đổi
của các khoản nợ đó trong Báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh. Tại thời điểm đó, họ
cũng có thể áp dụng các chính sách kế toán mà có yêu cầu
các ước tính hiện tại và các giả định
khác để xác định các khoản nợ bảo hiểm
theo công thức đã định sẵn. Không áp dụng các
chính sách kế toán này một cách nhất quán cho tất
cả các khoản nợ tương tự khác vì Chuẩn
mực kế toán số 29 đã có hướng dẫn khác
cho các khoản nợ này. Nếu như doanh nghiệp bảo
hiểm lựa chọn cách xác định nợ bảo hiểm
theo cách này, họ sẽ tiếp tục sử dụng lãi
suất thị trường hiện hành (nếu có thể
và các ước tính, giả định hiện hành khác - nếu
có) một cách nhất quán trong tất cả các kỳ báo
cáo và cho tất cả các khoản nợ này cho tới khi
chúng được thanh toán.
Tiếp tục thực hiện các chính sách
kế toán hiện hành
22. Nếu sự thay đổi chính sách kế
toán không thoả mãn các quy định nêu tại đoạn
19, doanh nghiệp bảo hiểm có thể tiếp tục
thực hiện các chính sách kế toán hiện hành như
a) Xác định khoản nợ bảo
hiểm trên cơ sở không chiết khấu.
b) Xác định các quyền theo hợp
đồng đối với các khoản phí quản lý
đầu tư trong tương lai với giá trị
vượt quá giá trị hợp lý của chúng, như những
giá trị này được tính toán bằng cách so sánh với
mức phí của các doanh nghiệp cung cấp những dịch
vụ tương tự trên thị trường. Hầu
như chắc chắn rằng những giá trị hợp
lý tại thời điểm ban đầu sẽ bằng
với các chi phí gốc, chỉ trừ khi các khoản phí quản
lý đầu tư chứng khoán trong tương lai và các
chi phí có liên quan không phù hợp với những chi phí
tương tự trên thị trường.
c) Sử dụng các chính sách kế
toán không đồng nhất cho các hợp đồng bảo
hiểm (các chi phí khai thác chờ phân bổ và các tài sản
vô hình có liên quan) của các công ty con, trừ các trường
hợp đã được quy định trong đoạn
21. Nếu các chính sách kế toán này không đồng nhất,
doanh nghiệp bảo hiểm phải thay đổi các
chính sách này nếu như sự thay đổi đó không
làm các chính sách kế toán thay đổi nhiều hơn và vẫn
thoả mãn các yêu cầu khác trong chuẩn mực này.
Thận trọng
23. Trường hợp đang áp dụng
nguyên tắc kế toán thận trọng, doanh nghiệp bảo
hiểm không nhất thiết phải thay đổi các
chính sách kế toán đối với các hợp đồng
bảo hiểm để làm giảm sự thận trọng
đó. Tuy nhiên nếu doanh nghiệp bảo hiểm đã và
đang áp dụng các chính sách đối với hợp
đồng bảo hiểm với một mức độ
thận trọng vừa đủ thì không cần thiết
phải tăng thêm mức độ thận trọng này.
Tỷ suất đầu tư trong
tương lai
24. Doanh nghiệp bảo hiểm không
nhất thiết phải thay đổi các chính sách kế
toán cho các hợp đồng bảo hiểm để tính
toán lại tỷ suất đầu tư trong tương
lai. Tuy nhiên có một giả định là báo cáo tài chính của
doanh nghiệp bảo hiểm có thể sẽ giảm độ
hợp lý và tin cậy nếu như họ sử dụng
chính sách kế toán để phản ánh tỷ suất
đầu tư trong tương lai nhằm tính toán các hợp
đồng bảo hiểm, trừ khi những tỷ suất
đó phản ánh khoản phải thanh toán theo hợp đồng.
Ví dụ về các chính sách kế toán phản
ánh những tỷ suất đầu tư trong
tương lai:
a) Sử dụng tỷ lệ chiết khấu
phản ảnh tiền lãi được ước tính
trên tài sản của doanh nghiệp bảo hiểm; hoặc
b) Đưa ra dự kiến mức hoàn vốn
trên các tài sản này với một tỷ lệ hoàn vốn
ước tính, chiết khấu các khoản hoàn vốn dự
kiến đó bằng các tỷ lệ khác nhau và bao gồm
cả những kết quả tính toán nợ bảo hiểm.
25.
Doanh nghiệp bảo hiểm có thể
khắc phục giả định nêu ở đoạn 24
chỉ khi các sự thay đổi khác trong chính sách kế
toán với mức tăng tính hợp lý và độ tin cậy
của các báo cáo tài chính lớn hơn mức giảm tính hợp
lý và độ tin cậy gây ra bởi tỷ suất đầu
tư tương lai.
Ví dụ: Các chính sách kế toán hiện tại
của doanh nghiệp bảo hiểm đối với các
hợp đồng bảo hiểm bao hàm các giả định
quá thận trọng được đặt ra tại thời
điểm ban đầu và một tỷ lệ chiết
khấu theo qui định mà không cần tham khảo thực
trạng thị trường, bỏ qua một số quyền
chọn cũng như bảo đảm đi kèm. Trong
trường hợp này, doanh nghiệp bảo hiểm có thể
làm cho báo cáo tài chính trở lên hợp lý hơn mà không làm giảm
độ tin cậy bằng cách chuyển sang một số
thay đổi, có sự chú ý hơn cho mục đích đầu
tư và được sử dụng một cách rộng
rãi hơn, liên quan đến:
a) Các ước tính và giả
định hiện hành;
b) Sự điều chỉnh hợp lý
(nhưng không quá thận trọng) để phản ánh rủi
ro và tính không chắc chắn;
c) Việc xác định phản
ánh cả giá trị thực và giá trị thời gian của
quyền lựa chọn và đảm bảo đính kèm;
d) Tỷ lệ chiết khấu
thị trường hiện hành, thậm chí tỷ lệ
chiết khấu đó phản ánh tỷ lệ lãi ước
tính trên tài sản của doanh nghiệp bảo hiểm.
26.
Trong một số phương pháp
tính toán, tỷ lệ chiết khấu được dùng
để xác định giá trị hiện tại của
khoản lợi nhuận trong tương lai. Khoản lợi
nhuận này được quy về từng giai đoạn
khác nhau theo một công thức. Trong những phương
pháp đó, có phương pháp tỷ lệ chiết khấu
tác động đến việc tính toán các khoản nợ
một cách gián tiếp. Cụ thể phương pháp sử
dụng tỷ lệ chiết khấu không hợp lý có thể
có những tác động nhất định hoặc là
không có tác động gì đối với việc tính toán
các khoản nợ tại thời điểm ban đầu.
Tuy nhiên, trong những phương pháp khác, tỷ lệ chiết
khấu xác định việc tính toán các khoản nợ một
cách trực tiếp, thì việc sử dụng tỷ lệ
chiết khấu dựa trên tài sản có ảnh hưởng
đáng kể hơn, nên hầu như doanh nghiệp bảo
hiểm sẽ không thể khắc phục được
giả định nêu trong đoạn 24.
Các hợp
đồng bảo hiểm thu được từ
hợp nhất kinh doanh hay chuyển giao có tính mua lại
hợp đồng bảo hiểm
27. Theo Chuẩn mực kế toán số 11- "Hợp
nhất kinh doanh", trong ngày hợp nhất doanh nghiệp
bảo hiểm có thể tính toán giá trị hợp lý các
khoản nợ bảo hiểm ước tính và các tài
sản bảo hiểm được thu nhận trong
hợp nhất kinh doanh. Tuy nhiên, doanh nghiệp bảo
hiểm được phép nhưng không bắt buộc
sử dụng cách trình bày để tách biệt giá trị
hợp lý của các hợp đồng bảo hiểm thu
nhận được thành 2 phần:
a) Nợ được xác định giá
trị dựa trên cơ sở các chính sách kế toán
của doanh nghiệp bảo hiểm đối với các
hợp đồng bảo hiểm mà họ phát hành; và
b) Tài sản vô hình đại diện cho sự
khác biệt giữa:
i) Giá trị hợp lý của các quyền bảo
hiểm trong hợp đồng được thu nhận
và các nghĩa vụ bảo hiểm ước
tính;
ii) Giá trị khoản nợ nêu tại
điểm a.
Sau đó việc
tính toán tài sản này sẽ phải nhất quán với tính
toán của khoản nợ bảo hiểm có liên quan.
28. Doanh nghiệp bảo hiểm nhận chuyển
nhượng hợp đồng bảo hiểm có thể
dùng phương thức trình bày chi tiết hơn như
đã mô tả trong đoạn 27.
29. Các tài sản vô hình quy định tại đoạn
27, 28 không thuộc phạm vi của Chuẩn
mực "Tổn thất tài sản" và
Chuẩn mực "Tài sản cố định vô hình".
Tuy nhiên, Chuẩn mực "Tổn thất tài sản"
và Chuẩn mực "Tài sản cố định vô
hình" được áp dụng cho các khách hàng liên
quan đến các hợp đồng tương lai mà các
quyền hoặc nghĩa vụ bảo hiểm trong hợp
đồng không hiện hữu tại ngày hợp nhất
kinh doanh hoặc chuyển nhượng hợp đồng
bảo hiểm.
Phần không đảm bảo
Phần không đảm bảo trong hợp đồng
bảo hiểm
30. Một số hợp đồng bảo
hiểm có phần đảm bảo và phần không
đảm bảo. Đối với các hợp
đồng này doanh nghiệp bảo hiểm áp
dụng quy định sau:
a) Có thể, nhưng không nhất thiết
phải hạch toán riêng phần đảm bảo và
phần không đảm bảo. Nếu doanh nghiệp
bảo hiểm không ghi nhận một cách riêng rẽ, thì có
thể xác định toàn bộ hợp đồng bảo
hiểm như một khoản nợ phải trả.
Nếu doanh nghiệp bảo hiểm phân loại một
cách riêng rẽ, thì có thể xác định phần có
đảm bảo như một khoản nợ phải
trả.
b) Trường hợp ghi nhận riêng
rẽ phần không đảm bảo và phần có
đảm bảo, doanh nghiệp bảo hiểm có thể
ghi nhận phần không đảm bảo là một
khoản nợ phải trả, (hoặc là một phần
riêng biệt của nguồn vốn chủ sở hữu).
Chuẩn mực này không quy định phương pháp xác
định phần không đảm bảo là một
khoản nợ hay vốn chủ sở hữu, doanh
nghiệp bảo hiểm có thể chia thành phần
thuộc khoản nợ phải trả hoặc vốn
chủ sở hữu và phải áp dụng một cách
nhất quán, mà không được xác định phần
này như là một phần trung gian ở giữa nợ
phải trả hoặc vốn chủ sở hữu.
c) Có thể ghi nhận tất cả các
khoản phí bảo hiểm nhận được như
là doanh thu mà không phải tách riêng bất kỳ phần nào
có liên quan đến vốn chủ sở hữu. Kết
quả của sự thay đổi phần có đảm
bảo và phần không đảm bảo khi được
phân loại là khoản nợ phải trả sẽ
được ghi nhận trong Báo cáo kết quả
hoạt động kinh doanh. Nếu một phần
hoặc toàn bộ phần không đảm bảo
được phân loại trong vốn chủ sở
hữu, thì một phần của lãi hoặc lỗ sẽ
được tính cho phần không đảm bảo
(cũng giống cách tính lợi ích của cổ đông
thiểu số) thì doanh nghiệp bảo hiểm có thể
ghi nhận một phần của lãi hoặc lỗ quy cho
bất kỳ một phần nào của vốn chủ
sở hữu thuộc phần không đảm bảo
như một khoản phân phối lãi hoặc lỗ
chứ không phải thu nhập hay chi phí (quy định
tại Chuẩn mực kế toán số 21 "Trình bày báo
cáo tài chính").
d) Có thể áp dụng Chuẩn mực "Công
cụ tài chính", nếu trong hợp đồng bảo
hiểm có công cụ phái sinh thuộc phạm vi của
Chuẩn mực “Công cụ tài chính”.
e) Có thể tiếp tục áp dụng các chính
sách kế toán hiện hành cho những hợp đồng
đối với những vấn đề không được
quy định trong các đoạn 12 – 18 và 30 (a), 30 (d)
trừ khi doanh nghiệp bảo hiểm thay đổi các
chính sách kế toán theo quy định tại các đoạn
19 – 26.
Phần không đảm bảo trong các công cụ tài chính
của hợp đồng bảo hiểm
31. Các quy định trong đoạn 30 cũng
được áp dụng cho một công cụ tài chính có
phần không đảm bảo, ngoài ra:
a) Nếu doanh nghiệp bảo hiểm phân
loại toàn bộ phần không đảm bảo là một
khoản nợ phải trả, họ có thể áp dụng
việc kiểm tra tính đầy đủ của các
khoản nợ phải trả theo quy định tại
các đoạn từ 14 – 17 cho toàn bộ hợp
đồng (Bao gồm cả phần có đảm bảo
và phần không đảm bảo). Doanh nghiệp bảo
hiểm không cần phải xác định giá trị
phần có đảm bảo do đã áp dụng Chuẩn
mực "Công cụ tài chính".
b) Nếu doanh nghiệp bảo hiểm phân
loại một phần hay toàn bộ phần không
đảm bảo như một phần riêng biệt
của vốn chủ sở hữu thì khoản nợ
được ghi nhận cho toàn bộ hợp đồng
không được nhỏ hơn giá trị của
phần có đảm bảo theo quy định của
Chuẩn mực "Công cụ tài chính". Giá trị này
bao gồm giá trị của quyền chọn có thể
thực hiện đối với quyền chấm dứt
hợp đồng nhưng không nhất thiết phải
bao gồm cả giá trị thời gian nếu như đã
miễn trừ quyền chọn không phải đánh giá theo
giá trị hợp lý (Theo đoạn 08). Doanh nghiệp
bảo hiểm không phải công khai giá trị phần có
đảm bảo theo quy định của Chuẩn
mực "Công cụ tài chính" và cũng không cần
phải trình bày khoản này một cách riêng rẽ. Ngoài ra
doanh nghiệp bảo hiểm không nhất thiết phải
xác định khoản này nếu toàn bộ khoản
nợ phải trả đã được ghi nhận rõ
ràng.
c) Mặc dù những hợp đồng này là
các công cụ tài chính, song doanh nghiệp bảo hiểm có
thể hạch toán các khoản thu phí của những
hợp đồng này vào doanh thu và ghi nhận phần
tăng lên đối với giá trị ghi sổ của
khoản nợ phải trả là chi phí.
Trình bày báo cáo tài chính
Giải thích các khoản được ghi nhận
32. Doanh nghiệp bảo hiểm phải trình bày rõ ràng
các thông tin giúp người sử dụng nhận biết
và giải thích các số liệu phát sinh từ các hợp
đồng bảo hiểm trong báo cáo tài chính.
33. Để tuân thủ quy định tại
đoạn 32, doanh nghiệp bảo hiểm phải trình
bày rõ ràng:
a) Các chính sách kế toán đối với các
hợp đồng bảo hiểm và các tài sản, các
khoản nợ phải trả, doanh thu và chi phí có liên quan.
b) Tài sản, các khoản nợ phải trả,
doanh thu và chi phí được ghi nhận (và các luồng
tiền nếu Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
lập theo phương pháp trực tiếp) phát sinh từ
các hợp đồng bảo hiểm. Trong trường
hợp nhượng tái bảo hiểm, doanh nghiệp
phải trình bày:
(i) Các khoản lãi hay lỗ được ghi nhận
trong Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
từ hoạt động nhượng tái bảo hiểm;
(ii) Nếu doanh nghiệp nhượng tái giữ lại
và phân bổ dần các khoản lãi hay lỗ phát sinh
từ nhượng tái bảo hiểm, thì phải trình bày
khoản phân bổ trong kỳ và khoản chờ phân bổ
vào đầu và cuối kỳ.
c) Quy trình được sử dụng để
xác định những giả định có ảnh
hưởng lớn nhất đối với việc
đánh giá các khoản được ghi nhận như
đã nêu trong đoạn (33/b). Trường hợp có
thể, doanh nghiệp bảo hiểm nên trình bày số
liệu liên quan đến các giả định này.
d) Ảnh hưởng của những thay
đổi trong các giả định được
sử dụng để đánh giá các tài sản bảo
hiểm và các khoản nợ bảo hiểm, trình bày riêng
những ảnh hưởng của từng sự thay
đổi mà có ảnh hưởng trọng yếu lên các
báo cáo tài chính.
e) Đối chiếu các thay đổi của các
khoản nợ bảo hiểm, các tài sản liên quan
đến tái bảo hiểm, và các chi phí khai thác có liên quan
chờ phân bổ (nếu có).
Giá trị,
thời gian và tính không chắc chắn của các luồng
tiền trong tương lai của hợp đồng
bảo hiểm
34. Doanh nghiệp bảo hiểm phải trình bày rõ
ràng mọi thông tin để giúp cho người sử
dụng hiểu được giá trị, thời gian và
tính không chắc chắn của luồng tiền trong
tương lai của các hợp đồng bảo
hiểm.
35. Để thực hiện theo quy định
tại đoạn 34, doanh nghiệp bảo hiểm
phải trình bày rõ ràng:
a) Các mục tiêu trong việc quản lý rủi ro phát sinh
từ các hợp đồng bảo hiểm và các chính sách
trong việc làm giảm bớt các rủi ro này;
b) Các điều khoản và điều kiện của
hợp đồng có ảnh hưởng trọng yếu
đến giá trị, thời gian và tính không chắc
chắn của luồng tiền trong tương lai của
các hợp đồng bảo hiểm;
c) Thông tin về rủi ro bảo hiểm (cả
trước và sau khi rủi ro được chia sẻ
bằng tái bảo hiểm), bao gồm thông tin về:
(i) Tính nhạy cảm của lãi hay lỗ
và vốn chủ sở hữu đối với những
thay đổi của các biến số có ảnh
hưởng trọng yếu lên chúng;
(ii) Sự tập trung của rủi ro
bảo hiểm;
(iii) Các khoản chi trả bồi thường
thực tế so với những ước tính
trước đó (ví dụ Bảng thống kê bồi
thường). Việc lập bảng thống kê bồi
thường nên bắt đầu từ giai đoạn
đầu từ khi phát sinh khoản khiếu nại chính
thức đầu tiên mà chưa biết được
chắc chắn số tiền và thời gian của các
khoản chi trả bảo hiểm. Tuy nhiên, không nhất
thiết phải quay ngược thời gian tới hơn
10 năm. Doanh nghiệp bảo hiểm không cần công khai
những thông tin về các khoản khiếu nại nếu
không chắc chắn về giá trị và thời
điểm của các khoản phải trả về
bồi thường được giải quyết trong
vòng 1 năm.
d) Thông tin về rủi ro lãi suất và rủi ro tín
dụng theo quy định của Chuẩn mực "Công
cụ tài chính" sẽ yêu cầu trong trường
hợp hợp đồng bảo hiểm nằm trong
phạm vi của chuẩn mực đó;
e) Thông tin về
rủi ro lãi suất và rủi ro thị trường
của các công cụ tài chính phái sinh thuộc hợp
đồng bảo hiểm gốc nếu doanh nghiệp
bảo hiểm không buộc phải, hay không đánh giá công
cụ tài chính theo giá trị hợp lý./.
0 nhận xét